Thứ Ba, 16 tháng 1, 2018

MAMI TRẦN VIẾT VỀ MAI LĨNH

Giong thoi gian lan 7 bai 1 ,cua hieu ba ma toi ten la Tran nguyen Cat so 81 boulevard Charner 1 er Arondissement,Saigon,ten ba toi lam ten hieu Nha rat dong tho thuyen nguoi giup viec,da so la chau gan hoac xa,ca nguoi lang thuong den o nha nay, Duoc noi an o yen on, nhieu nghe neu muon hoc, Nghe vung vang o lai lam tho cho ba toi co luong,Phan dong long canh du thi tho voi doi ho ra di tao su nghiep rieng cho ho,Va cung thanh cong,giauco tai saigon,ho hap thu nhieu tinh tot cua ba toi, trong do co niem dam me dat dai nha cua. Nhieu moi tinh dep nho doi, co moi tinh nen duyen vo chong cung tai can nha nay, Nhu tren toi ke,cac nguoi ba ma toi bao boc ngoai cac chau, thi con nguoi lang, Nhung nguoi cung lang, tren dat xa que gap nhau cung nha, de sinh tinh cam, Toi thuong quanh nha, co nhieu chuyen tu nhien biet, Co bai ve xuat phat khong biet ai la tac gia, chac nhieu nguoi gop,Toi chi nho vai cau : sot soat nhu la chuoi kho. So nha 81 , 6 co chua chong . Co Thanh ma do hong hong, Co Mau tap tenh lay chong naymai,.Co Bang cua dong then cai. ........(con 3 co nua ) con them moi tinh khac, Co vendeuse cho ba toi o Ben tre den lam, Nha xa qua, co o luon, thinh thoang moi ve tham nha .Thuong goi la co 5,ten that la Trinh my Vien ,duong Guynemer gan do co nha ban sach va giay but hieu Mai linh, co nguoi chau trai ten la Do huu Bao tu bac vao choi ,Ba toi va bac Do van ky hai nha than nhau vi ba toi la ban rat than voi anh bac Ky. Do vay anh Bao thuong sang tiem ba toi, gap co 5 tinh yeu nay no di den hon nhan. Ma anh Bao tu bac vao xuong Ben Tre lam dam cuoi cho anh. Mot thoi gian ngan, anh Phi toi lai la em re anh Bao, luc nay khong ai ngo su doi lai them mot chuyen vui vay

ÔNG BA MAI LĨNH VÀ CON TRAI

Bài viết của Nguyễn Mạnh Tuấn
ÔNG BA MAI LĨNH VÀ CON TRAI
*
Đầu năm 2001, chú Đỗ Văn Ry ,(trong nhà thường gọi là Rỵ, con cả ông Ba Mai Lĩnh Đỗ Văn Kỳ ), nguyên đại tá Chánh văn phòng Không lực Việt Nam Cộng hoà, các hồi ký sau năm 1975, một số tướng lĩnh Việt Nam Cộng hoà có nhắc đến , như một trong những người chịu trách nhiệm chính cuộc di tản cuối tháng 4/1975 của quân đội chế độ cũ, bằng đường hàng không, cùng vợ, từ Mỹ về Việt Nam, thăm họ hàng ruột thịt.
Tôi biết chú Rỵ từ mấy năm đầu thập niên 1950, lúc tôi 7,8 tuổi, khi chú cùng chú Đỗ Như Lân, và hai chú Nghiêm, chú Doanh (thuộc họ hàng bên nội tôi), từ Phúc Yên ra Hà Nội , trọ học tại nhà tôi ở phố Trần Nhật Duật. Chú Rỵ cao đẹp và có tướng phong lưu, nhưng đậu tú tài xong, bị bắt động viên (quân dịch), rồi đi học trường sĩ quan Đà Lạt.
Khi đến nhà tôi ở Gò Vấp, Sài Gòn, vào tuổi ngoài bảy mươi, chú vẫn đẹp tướng và phong lưu, ứng xử thân tình, dù rất có thể chú chỉ mới biết, chứ chẳng bao giờ nhớ thằng tôi nhóc con, hồi chú trọ học ở Hà Nội. Chú hỏi Hà Phương, vợ tôi:
Nghe nói hồi chiến tranh, cháu ở Củ Chi? Chú ở không quân, nhưng rất rành vùng đó. Không chừng chú cháu mình cũng từng gặp nhau.
Vợ tôi nói:
Gặp cháu, chú có bắn?
Nếu biết cháu là con dâu ông Lược, bà Lộc nhà Mai Lĩnh, chú sẽ thả súng để ôm cháu. Còn cháu có bắn chú?
Hai bên không biết nhau, cháu không bắn chú, chắc chắn chú sẽ bắn cháu.
Những người ruột thịt có mặt cùng cười vui vẻ. Thật may, nhà Mai Lĩnh, gần trăm năm, đồng trải đủ mọi thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt đẫm máu và nước mắt, có người bên này, có người bên kia, chưa có trường hợp nào ruột thịt phải bắn giết nhau.
*
Tôi hoàn toàn không biết ông Ba, thân sinh chú Rỵ, vì thời của ông, tôi còn chưa ra đời, nhưng mấy năm sau khi miền Bắc giải phóng (1954), anh tôi (Nguyễn Minh Khôi) sớm đọc, rất mê và thuộc làu cuốn Sông Đông Êm Đềm của Solokhov, khi nhắc về các ông Mai Lĩnh , hay nói: Ông Ba nhà mình chính là Gregori Việt Nam.
Sau này, ở tuổi thanh niên, cũng đọc Sông Đông Êm Đềm, tôi mới hiểu anh tôi ví ông Ba Đỗ Văn Kỳ với nhân vật Gregori trong tác phẩm này, là muốn nói về một nhân vật thuộc tầng lớp trung lưu, rất nhiệt huyết trong tình yêu nước và lý tưởng tự do, phải vùng vẫy tìm một con đường chân chính cho mình giữa phong ba bão táp của thời cuộc nước Nga những năm thù trong, giặc ngoài, sau cách mạng Tháng Mười 1917. Gregori , lúc Bạch vệ, lúc Hồng quân, lúc thoát ly tất cả , bỏ về với thảo nguyên, vân vân…
Cuộc đời của ông Ba Đỗ Văn Kỳ cũng vậy. Khi ở tuổi niên thiếu, ông đã theo cha, bề ngoài là phụ việc thày lang nay đây, mai đó, thực chất là giúp cha làm liên lạc và móc nối với các nhân sĩ trong mạng lưới phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Năm 1908, tại Hà Nội, xảy ra vụ đầu độc hơn 200 sĩ quan và lính Pháp. Vụ việc thất bại do lỗi ấu trĩ của những người chủ mưu, khiến nhiều người liên quan bị chính quyền Pháp bắt xử tử hình, tù đầy, truy nã. Ông Đỗ Văn Phong, người tham gia cung cấp và bào chế thuốc độc cùng ba con lớn: Đỗ Văn Nghệ, Đỗ Văn Thuật (tức Kiêm, ông ngoại tôi), Đỗ Văn Kỳ đều bị bắt. Năm 1913, chính quyền Pháp đưa vụ án ra xét xử, ông Phong trong số bị xử khổ sai chung thân, đày đi đảo Guyane, Nam Mỹ; các ông Nghệ, ông Thuật, ông Kỳ, trong số bị đày đi Sơn La. Hết hạn 3 và 5 năm tù, ông Nghệ, ông Thuật lần lượt được thả. Riêng ông Kỳ và một số tù nhân tổ chức vượt ngục thành công, sống bất hợp pháp, tham gia vào nhóm Quốc Dân Đảng Nguyễn Văn Tráng, chuyên chế tạo và đánh bom cảm tử, hai năm sau mới bị bắt lại, tiếp tục lãnh án tù tại Sơn La, đến 1924 mới được thả.
Sau khi ra tù, biết tin các ông Thuật, ông Năm và bác Thụ (con ông Nghệ) đang ở Bạc Liêu với cha từ Guyane vượt ngục về sống và tiếp tục hoạt động chống Pháp, ông Ba cũng vào Bạc Liêu. Và từ đây, theo di huấn của cha, ông Ba cùng các anh em trở về, thực hiện việc lập ấp, mở trường, hoạt động báo chí, xuất bản, suốt từ Nam ra Bắc.
Trong anh em nhà Mai Lĩnh, những người trực tiếp tham gia hoạt động báo chí, xuất bản, có ông Sáu Đỗ Xuân Mai, ông Bảy Đỗ Như Ngọc, bác Thụ (Đỗ Văn Thụ) và Nguyễn Hữu Lược (bố tôi, là con rể).Các ông Hai Đỗ Văn Thuật, ông Ba Đỗ Văn Kỳ, ông Tư Đỗ Như Phượng, ông Năm Đỗ Văn Năm, chủ yếu làm kinh tế, vì thời ấy làm xuất bản với các loại sách giáo dục, học thuật, dịch thuật, đều phải bù lỗ, nên công những người làm kinh tế tạo hậu phương vững chắc cho công việc xuất bản, báo chí trong nhà Mai Lĩnh ,rất lớn. Theo bố tôi, suốt hơn chục năm, nhà xuất bản Mai Lĩnh ra đời, tồn tại và thịnh vượng, ở những điểm nóng từ Phúc Yên, Phú Thọ, Hải Phòng, Hà Nội, Sài Gòn luôn có mặt nhân vật đa năng và quyết liệt, nay Nam, mai Bắc, giải quyết nhanh mọi chuyện , là ông Ba Đỗ Văn Kỳ.
Những năm ở tù Sơn La, ông Ba có mối quan hệ thiện cảm và thân thiết với những người tù cộng sản. Từ năm 1939, được những người này vận động, ông tham gia vào mặt trận Việt Minh. Năm 1943, ông Ba để bố tôi ở lại Mai Lĩnh Sài Gòn, ra Bắc, tham gia lực lượng Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Bố tôi can: Việc ở Sài Gòn đang rất cần chú… Ông nói: Phải cứu nước trước khi cứu nhà. Khi cách mạng tháng 8 -1945 thành công, ông trở thành Đảng viên Cộng sản. Sang thời kháng chiến chống Pháp, ông là cán bộ cấp trung đoàn của quân đội Việt Minh. Nhưng vào thời kỳ tại chiến khu Việt Bắc khơi mào phong trào chỉnh huấn, ảnh hưởng từ Trung Cộng, quá khứ từng tham gia Quốc Dân Đảng của ông bị khui ra…Dù chỉ bị truy khai, chưa bị xử lý, ông vẫn đầy tâm trạng.
Bố tôi cùng thời với ông Ba ở Thái Nguyên, kể: Hồi đó, kẻ sĩ đi tham gia kháng chiến là thể hiện cả chí khí và nhân cách. Khi đã hết lòng vì chính nghĩa lại bị nghi ngờ đen trắng lập lờ là sự tổn thương rất lớn. Ta nói với ông: Chú cứ khai sự thật, nhà Mai Lĩnh từng đóng góp rất nhiều công của trong những ngày đầu kháng chiến, và hiện đang có các ông Năm, bác Phong, cậu Lợi, các chú Tùng, chú Bách, vân vân…cùng góp máu ở chiến trường... Ông Ba suy ngẫm, rồi nói: Điều này, tôi không nghe anh được…Việc đóng góp cho kháng chiến là tự mình, người ta đã không biết, mình cũng chẳng nên kể công; còn việc nêu tên những người ruột thịt, người ta đã không tin, có khi mình còn làm vạ lây anh em, con cháu.
Chính vì cắn răng chịu một mình, không vượt qua nổi thử thách khắc nghiệt bởi những cực đoan và ấu trĩ của thời thế, ông đã chọn con đường tự sát (được nghi là cố ý uống quá nhiều thuốc ký ninh). Những năm đó, một cán bộ quân đội, Đảng viên Cộng sản tự sát là chuyện tày trời, bắt buộc phải giấu diếm bằng mọi giá. Thế là sự thật cay đắng này, về công khai ở cả đơn vị lẫn gia đình là, thông báo ông mất vì bệnh. Bố tôi nói về cái chết của ông: Muốn một người tính cách khảng khái, quyết liệt như ông Ba phải chịu nhẫn nhục để tiếp tục sống mà nuôi hy vọng mịt mờ là không thực tế. Nếu có điều đáng tiếc, chỉ ở chỗ ông thực sự là người tài năng xuất sắc, luôn hết mình vì dòng tộc và đất nước…Hồi đó, cùng yêu nước, cùng đánh Pháp, chỉ vì vài định kiến khác nhau về quyền lợi và quyền lực chưa có mà thành thù địch và mất oan rất nhiều người tài. Rồi bố tôi nói thêm: Trong cái rủi cũng có cái may, ông đi sớm, không phải chứng kiến cảnh sau kháng chiến chống Pháp thành công là cải cách ruộng đất 1954, hai bà Ba ( vợ ) và cô Sửu, con gái út của ông, cùng bà Tư (mẹ của giáo sư Đỗ Như Lân), ở Xuân Mai, cái nôi của dòng họ Mai Lĩnh, rơi vào cảnh không tấc đất cắm dùi.
* -
Năm 2010, vợ chồng tôi cùng kỹ sư Đỗ Thái Bình (con ông Bảy Mai Lĩnh Hải Phòng Đỗ Như Ngọc) sang Mỹ thăm một loạt các công dân Mai Lĩnh, từng cùng di cư vào Nam năm 1954, rồi cùng di tản sang Mỹ tháng 4 năm 1975, gặp chú Rỵ. Vợ chồng chú ở một ngôi biệt thự khiêm tốn, với đời sống kinh tế, theo mắt tôi là trung bình, ở Colorado, với chế độ hưu trí. Năm con trai gái đều thành đạt và có gia đình riêng. Trước khi gặp chú, tôi nghe Đức (con cô Diệu , sống ở Califonia) kể: Đến nhà chú Rỵ, anh chị sẽ thấy phân nửa tầng trệt là sự phục hiện gian phòng Chánh văn phòng Không lực Việt Nam Cộng hoà, hồi chú đương chức ở Sài Gòn, nguyên mặt tường phía sau bàn giấy là tấm bản đồ Việt Nam khổ lớn, vẫn treo lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam cộng hoà. Nhưng khi chúng tôi đến, không thấy lá cờ. Không rõ vì có chúng tôi, chú tạm bỏ đi, hay chú đã bỏ từ lâu mà Đức không biết...Tủ sách lớn nhà chú , cũng ở phía sau bàn giấy, xếp đầy sách, chủ yếu là sách tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng tôi bất ngờ khi thấy không ít sách văn học mới xuất bản của các tác giả trong nước như: Thời Xa Vắng của Lê Lựu, Đất Trắng ( tiểu thuyết về cuộc chiến ác liệt ở Củ Chi, Sài Gòn) của Nguyễn Trọng Oánh, Chân Dung và Đối Thoại của Trần Đăng Khoa, vân vân…hầu hết là sách của các tác giả đang gây tiếng vang thời kỳ đổi mới ở trong nước. Những sách này chú đều nhờ Khang (con trai cô Dậu, em ruột chú ) mua từ Sài Gòn, gửi sang. Tôi hỏi:
Đọc những cuốn này, chú có thích?
Chú tìm đọc, chỉ để biết mạch nhịp đời sống đang nóng nhất và đang phù hợp với đời sống văn học trong nước …Biết đâu mình cũng có thể viết một cái gì đó cho người đọc ở nhà...
Chú vẫn nói với cháu, chú là nhà binh chuyên nghiệp, không làm việc khác?
Thời thế đưa đẩy chú thành nhà binh chuyên nghiệp, nhưng từ hồi học trọ ở nhà cháu, chú vẫn mong mình trở thành nhà văn, điều chú không bao giờ nói với ai. Ước ao làm văn hoá có lẽ từ cái gien của dòng tộc Mai Lĩnh khi vô hình, khi hữu hình, chú tiếp thu từ ba chú và các bác, các chú. Nhưng đến giờ, chú vẫn chưa bắt đầu, vì viết theo kiểu các nhà văn Việt cộng, chú không thể viết được.
Thì chú viết theo lối các nhà văn miền Nam trước 1975. Hiện giờ ở trong nước đã bắt đầu tái bản một số sách của các nhà văn này.
Chú rất thích một số nhà văn miền Nam. Nếu có đủ năng lực và hứng thú, chú đã viết từ hồi còn ở Sài Gòn.
Liệu chú có quá cầu toàn?
Cứ nói thẳng ra là chú đang bế tắc hay đang là kẻ viển vông. Đắn đo và loanh quanh khá lâu, chú mới quyết định nói: Thực ra, chú đã viết một số chương hồi ký, lúc nào tiện, chú sẽ đưa cháu đọc thử…
Theo cháu, chú nên bắt đầu viết về những năm tháng trên đất Mỹ?
Nói một cách công bằng, Mỹ là đất nước có dân chủ và tự do thật sự, nhưng với một người lính Việt Nam Cộng hoà thuộc hàng cao cấp như chú thì sang đây là một nỗi ô nhục. Người Mỹ đã đẩy Việt Nam Cộng hoà vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, rồi bỏ rơi đồng minh vào bi kịch thảm bại…Hận lắm, hận lắm, nhưng biết chạy đi đâu? Ở lại, chắc chắn là bị tù tội trả thù…đành cay đắng chạy theo thằng bồ đã phụ bạc mình…Sang đến Mỹ, một lần nữa lại bị bỏ rơi, phải làm đủ thứ nghề hạ đẳng…, may về sau nhờ một người bạn Mỹ đang là trung tướng, bảo chứng, đời sống mới dần cải thiện…
Chú kể rất kỹ với tôi, mình là một trong hai người chủ chốt trong việc tổ chức các chuyến di tản quân sự khỏi Sài Gòn bằng đường hàng không, từ tháng 4 – 1975, nhưng khi chính chú, người cuối cùng lên máy bay rời Sài Gòn, vào sáng ngày 30 – 4, thì bị người Mỹ không cho lên, vì chỗ ngồi của chú, vị tư lệnh không quân, bạn thân của chú, đã đưa một kẻ khác lên ngồi bằng…USD, khiến chú, phải chạy bộ ra cảng Bạch Đằng, vượt biên bằng đường biển do đường dây của dì Doanh tổ chức.
Chúng tôi ở nhà chú ba ngày với nhiều kỷ niệm đẹp, trừ việc chú né tránh không đưa tôi đọc những chương hồi ký như đã hứa, đồng thời do ở lâu mới biết chú đang giấu chuyện mình bị ung thư dạ dày, thường xuyên phải đeo một chiếc túi chứa dịch tiết trước bụng, để rồi chỉ một thời gian ngắn sau đó, ở Việt Nam tôi nhận tin chú tự sát, chỉ vì không muốn căn bệnh kéo dài khiến mình mất đi dáng vẻ phong lưu vốn có trong mắt mọi người và làm phiền người thân.
Sự ra đi của hai cha con: ông Ba Mai Lĩnh Đỗ Văn Kỳ và con trai Đỗ Văn Ry, đều do tự sát, phải chăng là cùng nguyên nhân và định mệnh?
Tôi không bao giờ quên ngày cuối cùng ở cùng cô chú, để rồi hôm sau, cô chú và em Bé (tên ở nhà của con gái lớn của chú) tiễn chúng tôi ra tận sân bay, chú, người trưởng đại diện của nhà Mai Lĩnh ở hải ngoại, nói chuyện với tôi ở ngoài vườn đầy lá rụng, tại bậc thềm trước ga ra:
Theo cháu, sự nghiệp xuất bản báo chí vẻ vang ngày nào của nhà Mai Lĩnh có thể phục hồi? Thấy tôi ngồi im, chú nói thêm: Chú còn thèm cả cái tình anh em của các ông, dù ở gần hay xa nhau, lúc nào cũng sống vì nhau, vì dòng tộc và thường mong giá như có lại thời ấy, mặc dù càng nhớ, càng thấy nó xa lơ xa lắc.

NMT

DÌ DOANH

Bài viết của Nguyễn Mạnh Tuấn

DÌ DOANH

Đầu năm 1990, nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam có thiện ý, thu gom, phục hồi tư liệu về những nhà xuất bản đầu tiên của Việt Nam, trong đó, có Nhà Xuất bản Mai Lĩnh (1936) của các ông bên họ ngoại nhà tôi, để đưa vào Tủ sách Thế giới Văn học. Tại cuốn Nhà Xuất Bản Mai Lĩnh, xuất bản 1992, tôi có tham gia viết bài Mai Lĩnh - dòng chảy của một gia tộc hay phác thảo của bộ tiểu thuyết, với tâm nguyện sẽ viết được cái gì lớn lao về sự nghiệp của các ông nhà mình, vì các ông xứng đáng được tôn vinh, nhưng rồi hoàn cảnh khiến tôi chưa đủ độ chín để viết. Năm 2015, cuốn Nhà Xuất Bản Mai Lĩnh được tái bản, tôi có bổ sung hai bài về ông Tư (Đỗ Như Phượng) và ông bà Bảy (Đỗ Như Ngọc). Tôi không ý định viết hết chân dung các thành viên nhà Mai Lĩnh, những người có công lớn với gia tộc vào sách, nhưng có hai người, nếu không viết được, tôi sẽ áy náy suốt đời, là ông Ba (Đỗ Văn Kỳ) và dì ruột thứ hai của tôi: Đỗ Thị Doanh, mặc dầu dì dường như đứng ngoài sự nghiệp xuất bản báo chí của gia tộc.

Ông ngoại tôi (Đỗ Văn Thuật , tức Kiêm), linh hồn chính của anh em nhà Mai Lĩnh, sau khi cụ ngoại Đỗ Văn Phong bị người Pháp xử tù khổ sai chung thân, đày tại Guyane, Nam Mỹ, có năm con: mẹ tôi là cả, giáo sư tiến sĩ dược học Đỗ Tất Lợi thứ hai, cậu Đỗ Hữu Bảo, theo Việt Minh đi Nam tiến, lấy vợ Bến Tre, hy sinh ở chiến trường Nam bộ năm 1947, thứ ba; thứ tư và con út là hai dì Đỗ Thị Diệu và Đỗ Thị Doanh.

Mẹ tôi đột ngột mất vì bệnh năm 1948, khi bà mới 32 tuổi, tôi lên 3, em tôi: Nguyễn Thế Vinh, (sau này, định mệnh cũng dẫn dắt theo nghề xuất bản), lên 1, nên ý niệm về hình ảnh lẫn tình cảm người mẹ trong anh em tôi rất mù mờ. Khi còn sống, mẹ tôi làm một việc mà phụ nữ ngày nay chưa thấy ai “học tập”, là lấy vợ lẽ cho bố tôi, để bà được …tự do ở phần hoạt động bên ngoài gia đình. Mẹ kế tôi là một phụ nữ hiền lành đối xử với các con chồng rất tốt, nhưng từ trong sâu thẳm, chúng tôi vẫn thiếu hình ảnh người mẹ ruột, có thể vẫn khi ẩn, khi hiện ở hai dì Diệu và Doanh. Dì Diệu lấy chồng ở Hải Phòng, thỉnh thoảng mới lên Hà Nội thăm ông bà ngoại, có ghé vào nhà tôi; năm 1954, di cư vào Nam, là hình ảnh được tôi ghi nhận nhiều nhất, một số phận dường như ít may mắn về đường tình yêu và hôn nhân, luôn hiện trên đôi mắt đẹp và buồn. Ấn tượng mạnh nhất với thời thơ ấu của tôi, là dì Doanh, dù đến năm 1953 và 1954, hai lần dì từ Sài Gòn ra Hà Nội, để vận động và đón ông bà ngoại di cư vào Nam, ồn ào xuất hiện ở nhà tôi, tôi mới biết mặt dì.

Đạo lý ngàn xưa đã thành nghiêm luật với người đàn bà Việt: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, vào đầu những năm 40 thế kỷ trước, vẫn còn nặng lắm, nhưng với dì Doanh, xuất giá theo chồng (chú Trần Văn Phi), con trai một nhà buôn khá giả tận Sài Gòn, nhưng ưu tiên một vẫn dành cho bố, mẹ mình: ông bà Mai Lĩnh; ưu tiên hai là anh em, chị em mình – con cái các ông, bà Mai Lĩnh; thứ ba mới đến các con; còn đức ông chồng và anh chị em nhà chồng luôn xếp từ thứ tư trở đi. Điều này tôi nghe chú Phi nói, khi chú từ Mỹ về nước, gặp tôi ở Sài Gòn, còn tôi nói lại, nếu đúng, không phải coi dì là người thiên vị mà chỉ để xác định dì tôi đã có “tinh thần bất khuất” chống đối ý thức hệ phong kiến có lẽ từ trong trứng.

Hai năm 1953, 1954, cuộc chiến giữa Việt Minh và thực dân Pháp đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Hai bên đều dồn toàn lực vào đỉnh điểm xung đột là chiến trường Điện Biên Phủ, khiến toàn bộ miền Bắc như một lò lửa lớn với nhiệt lượng các cuộc đấu tranh của các lực lượng ngầm hoặc công khai, các cuộc tâm lý chiến, càng về sau, càng nóng bỏng. Khi nhìn thấy quân Pháp sẽ thua, cuộc đấu dần gom về việc lực lượng không theo Việt Minh thì vận động dân di cư vào Nam, lực lượng theo Việt Minh thì vận động dân ở lại, bên nọ nói xấu bên kia kèm theo đủ thứ âm mưu, đe dọa, thậm chí, đổ máu , bắt bớ, để dân theo mình.

Giữa không khí xã hội, chính trị, chiến tranh, cực kỳ nhạy cảm và bất an, người người tìm cách chạy khỏi các thành phố lớn, thì dì Doanh, ở tuổi ngoài 30, dám bay ra Hà Nội vận động ông bà ngoại tôi vào Nam. Họ hàng ngoài Bắc, thấy dì xuất hiện đều kinh ngạc: Sao cô dám gan cóc tía? Chuyến đầu ra để bàn bạc vận động, dì không đi một mình mà còn dẫn theo hai con gái : Dung và Hanh. Dung bằng tuổi tôi, năm đó, cùng 9 tuổi, Hanh ít hơn hai tuổi. Hồi đó, hai đứa em họ lạ hoắc, da dẻ không trắng trẻo như con gái miền Bắc, giọng miền Nam nghe như nói ngọng, thời gian gặp nhau ít ỏi, nên chẳng kịp làm thân, nhưng ấn tượng khó quên với chúng tôi là cả Dung lẫn Hanh đều rất dạn dĩ, tự tin và thoải mải tự nhiên trong tiếp xúc với người lạ, khác hẳn đám con nít miền Bắc .trong đó có anh em tôi , thường rất rụt rè trước người mới quen.

Dì Doanh vận động cả bố tôi đưa gia đình vào Nam. “ Anh đưa cả nhà theo Việt Minh lên chiến khu rồi cùng bỏ về Hà Nội, khác gì đào ngũ, nên Việt Minh về, anh không thể thoát tội ”.

Bố tôi nói: “ Ngoài này chỗ nào cũng tai vách mạch rừng, cô nói năng phải giữ mồm giữ miệng. Tôi từng sống trong Nam bốn, năm năm, nên nói thật là đất miền Nam không hợp với tính cách của tôi, hơn nữa, các con tôi đã đông lại đều còn quá nhỏ”.

- Anh đừng có quanh co. Em biết thừa anh vẫn tin cộng sản.

- Nói như cô là người ta kết tội chống cộng đấy. Thời buổi thiên hạ đại loạn này, tôi chẳng tin ai ngoài chính mình.

Lịch sử Việt Nam là dòng chảy liên miên chống ngoại xâm. Hết chống Tàu ngàn năm, đến chống Pháp trăm năm, rồi chống Mỹ hai chục năm, nhưng nội tình hai giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ đã lồng vào cuộc chiến ý thức hệ, một bên là lý tưởng cộng sản và một bên là lý tưởng “cộng hòa”. Cuộc đấu nâng dần đến mức một mất một còn, lòng căm thù và ý chí cực đoan cùng lên tột đỉnh: bên này, ai không theo mình bị quy là chống cộng, phản động, Việt gian…; còn bên kia, ai không theo mình, bị quy là cộng sản … Bi kịch oan nghiệt của rất nhiều số phận lại rơi vào những người chẳng theo ai. Họ di cư vào Nam hay ở lại miền Bắc, đơn giản chỉ vì hoàn cảnh gia đình, vì miếng cơm manh áo, vì tình cảm và hy vọng an thân ở mảnh đất quê hương hoặc ngôi nhà, mảnh vườn tổ tiên để lại, nên họ cũng hồn nhiên bất mãn với những gì “không phải” của chế độ mới. Thế là thành địch. Bị đối xử như kẻ địch. Bi kịch ở miền Nam sau năm 1954 cũng không hơn, với những người bất bình với chế độ mới.

Dì Doanh thuộc số người không theo ai như vậy và cũng hồn nhiên chửi những ngang trái cả hai chế độ, chẳng biết sợ là gì. Kết quả, dì vẫn an toàn và hoàn thành xuất sắc việc đưa được bố mẹ, tức ông bà ngoại tôi, di cư vào Nam. Và 20 năm sau, sáng ngày 30/4/1975, giữa lúc thiên hạ đại loạn, dì lại hoàn thành xuất sắc việc đưa cả nhà rời khỏi Sài Gòn bằng đường biển, từ cảng Bạch Đằng.

Cuối năm 1975, khi làm việc ở Cục Báo chí và Xuất bản Miền Nam, lần đầu tiên bước chân vào Sài Gòn, tôi lần lượt được tiếp xúc với họ hàng thuộc phần nhà Mai lĩnh di cư vào Nam năm 1954: Ông Mai, bà Ba, bà Năm, bác Thụ, bác Tiếp, cô Diệu, cô Nguyên, anh Cừ, vân vân…hầu hết đều trong đời sống kinh tế khiêm tốn và do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là vai trò các thành viên Mai Lĩnh, kể từ ông ngoại tôi lẫn ông Mai, bác Thụ, về toàn diện không còn phù hợp với thời cuộc đang quá nhiều biến động, đòi hỏi sự thích nghi cao hơn. Và người duy nhất khá giả trong dòng họ Mai Lĩnh miền Nam là cô Doanh, chính xác hơn là gia đình cô Doanh, có nhà ở 81 Nguyễn Huệ, khu đất vàng quận 1, đã di tản sang Mỹ. Tôi chỉ gặp hai em Hanh (sinh năm 1947), Hưng (ít tuổi hơn), còn sót lại, và gặp lại cô trong những tấm hình anboom ở nhà cô Diệu.

Vài năm sau, khi kinh tế cả nước, đặc biệt ở miền Nam, rơi vào tình cảnh cực kỳ khó khăn, vì hậu quả tất yếu của một đất nước chiến tranh ác liệt kéo dài, cùng lệnh cấm vận nghiêm ngặt của Mỹ, nhưng chủ yếu vẫn là quá nhiều bảo thủ và sai lầm trong đường lối kinh tế, khiến đời sống dân chúng thiếu thốn toàn diện, từ mọi thứ nhu yếu phẩm, đến lương thực, điện nước, và đồng tiền liên tục mất giá…Một đất nước, hai đầu nam, bắc là hai vựa lúa lớn, vậy mà Nhà nước bán gạo cho dân phải kèm bo bo, khoai, sắn…Chính phủ buộc phải mở cánh cửa kinh tế bằng chính sách “bung ra”, còn nhân dân được phép “tự cứu mình trước khi trời cứu”, bằng nhiều con đường, trong đó có nguồn hàng đủ loại lớn nhỏ của bà con Việt kiều, những người di tản năm 1975, còn chưa vững chân ở nước ngoài, ùn ùn gửi về nước cứu tế cho thân nhân…Những năm đó, người trong nước vừa hôm qua còn lo sợ phải giấu mình có người nhà vượt biên theo địch, thì hôm sau lập tức được thay bằng niềm tự hào mình có hàng từ Mỹ gửi về.

Vợ chồng tôi được cô Doanh liên lạc cũng trong thời điểm này, vừa vì bố tôi, người mà cô Doanh luôn yêu quý, còn sống, đang ở với chúng tôi, phần vì cô nghĩ địa chỉ nhà tôi ở Sài Gòn thì việc gửi và nhận hàng về sẽ “thông thoáng” hơn nơi khác. Nhờ vậy, mỗi năm, vài lần, khi có giấy báo đi lãnh hàng từ cô gửi về, do bưu điện chuyển đến, vợ chồng tôi đều vào kho hàng của Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất làm thủ tục nhận hàng. Mỗi lần đi nhận, nhanh thì mất một buổi; chậm thì mất cả ngày, vì số người đến nhận trong ngày có lúc tới hàng ngàn. Hải quan Tân Sơn Nhất phải dành cả khu nhà lớn, nguyên là tổng kho hàng hoá cũ, thành nơi tập kết và giao hàng. Hàng gửi về, dù lớn hay nhỏ, người nhận đều phải mở tung, kiểm đếm từng món trước mắt nhân viên hải quan. Chính những ngày “đi thực tế” này, được tận mắt chứng kiến số lượng và giá trị từng gói hàng gửi về, chủ yếu là thuốc tây lẻ các loại, nhu yếu phẩm, mỹ phẩm rẻ tiền, vải vụn, quần áo cũ hoặc lỗi mốt, vân vân…sẽ được người nhận nhanh chóng đẩy ra thị trường, nhiều nhất, may mắn được vài ngàn đô la, ít nhất thì vài trăm đô la, mà thấy thương cả người nhận lẫn người gửi chắc chắn đang chưa mấy thuận lợi ở thiên đường Mỹ.

Vợ chồng tôi thường làm nhiệm vụ phân phối số hàng đó (có lúc là tiền gửi theo người quen Việt kiều về nước) theo thư hoặc lời nhắn của cô Doanh cho những người có tên trong Nam hoặc ngoài Bắc. Nhiều lần, tôi viết thư và nói với cô khi cô về nước: Cô đừng gửi tiền và quà nữa vì những lý do vân vân...

Cô lớn tiếng: Cô có thì cô mới gửi, và gửi cho ai là việc của cô, đừng can thiệp vào, nghe chửa?

Vào Sài Gòn từ 1942, giọng Bắc đã pha Nam, rồi sang Mỹ gần bốn chục năm, giọng Việt đã pha Mỹ, mà vẫn không mất cái ngữ điệu “nghe chửa” của làng Phù Xá, Phúc Yên, của cô, luôn khiến tôi thấy cô như không hề xa cách.Từ đấy, cô nhắn gửi tiền và gửi quà cho ai, đóng góp cho nhà từ đường Mai Lĩnh hay ngày giỗ chú, bác nào trong họ, vợ chồng tôi chỉ răm rắp tuân theo. Dần dần tôi hiểu ra những món tiền, quà , vốn không phải lúc nào cũng dư dả ,của cô đều từ những khao khát tình nghĩa họ hàng, dòng tộc nhà Mai Lĩnh và với những ai từng tình nghĩa với nhà Mai Lĩnh, dù trong Nam hay ngoài Bắc, trong nước hay ngoài nước, cộng sản hay không, sẽ không bao giờ loãng ra, không mất đi theo thời gian, thời cuộc, khoảng cách. Điều này, khiến nhiều lúc tôi giật mình, khi biết tuy tuổi đã cao, tuy ở nước ngoài xa xôi, vai trò của cô trong dòng tộc không còn ưu thế, nhưng quan hệ từ cô với người trong họ còn rộng hơn, thân thiết hơn là chúng tôi và nhiều người ở nhà, đang sống ngay giữa những người họ hàng, ruột thịt.

Bà ngoại tôi trước khi lấy ông ngoại tôi có một đời chồng và con riêng. Chúng tôi biết đến người con này là ông Năm Đần, rồi con ông Năm là anh Cừ, kế anh Cừ là anh Quân; tiếp theo là những ai, tuy cùng ở miền Bắc, tôi chỉ biết mù mờ vì chẳng bao giờ gặp nhau, cô Doanh chắc chắn còn xa hơn, vậy mà từ Mỹ, bất cứ ai trong số con ông Năm bị bệnh nằm bệnh viện, đời sống khó khăn, đến lứa con cháu những người này ở Phù Xá, Phúc Yên lấy chồng, lấy vợ, cô đều biết, để nhắn về cho chúng tôi gửi tiền ...

Lần thứ hai về Việt Nam, cô ở nhà tôi, bảo tôi thuê xe đưa cô về Châu Thành, Bến Tre. Tôi hỏi: Cô muốn thăm ai? Cô nói: Thăm nhà thông gia vợ chú Bảo ( anh ruột cô cũng là em ruột mẹ tôi). Tôi nói: Chú Bảo hy sinh từ năm 1947, chưa kịp có con cái. Cô ấy lấy chồng khác từ lâu, giờ đã qua Mỹ…- Bây giờ ở đấy vẫn còn bố cô ấy và mấy người anh chị em…Xét về mặt thời gian, đây thật là mối quan hệ đã hơn nửa thế kỷ, nhưng chiều cô, tôi vẫn đưa cô đi…Trên đường đi, thấy đường xá, làng quê quá nhiều đổi khác, cô có vẻ dao động: Về đây, có thể chẳng còn ai, nhưng cô vẫn quyết đi, vì cô nghĩ, dù một giọt máu loãng cũng đừng bao giờ để mất, cháu nghe chửa? Rất may, về đến nơi, ông bố cô vợ chú Bảo gần trăm tuổi và rất nhiều người vẫn còn sống và nhận ra cô. Mọi người cùng mừng đến bật khóc vì bất ngờ. Hoá ra hồi còn ở trong nước, dù Bến Tre là vùng chiến tranh ác liệt, dù vợ chú Bảo đi bước nữa từ lâu, không còn ở quê, cô vẫn tiếp tục mối thân tình với thông gia, những giọt máu thực ra đã rất loãng.

Những ngày cô ở nhà tôi, những giọt máu loãng và rất loãng đến với cô rất đông: người giúp việc, người làm từ mấy chục năm qua, người hợp tác làm ăn buôn bán, và cả những người cô từng là ân nhân, đến nay vẫn còn nợ nần. Tôi bảo: Giá không đi Mỹ, cứ ở trong nước, cô vẫn giàu có và nhiều người thân thiết. Cô nói: Cô đã đi rồi thì không bàn lại. Ở Việt Nam bây giờ làm giàu có chiều dễ hơn ở Mỹ. Nhưng cô sợ tuổi mình cao rồi…

Tôi biết từ lâu, khi có một số Việt kiều trở về nước, được Nhà nước trả nhà, cô đã nhờ một số người quen, trong đó có cả cậu Đỗ Tất Lợi, tìm cách lấy lại nhà 81 Nguyễn Huệ, quận 1 và những lô đất ở quận Bình Thạnh, vân vân… với mọi giấy tờ sở hữu nhà đất còn đầy đủ. Tôi cũng được cô đưa đi xem những đất đai, nhà cửa trên, nhưng không rõ vì lý do gì, cô không nhờ vợ chồng tôi. Sau này, tôi hỏi, cô mới nói: Cô không nhờ các cháu vì nghe nói vụ này phải chạy chọt đút lót rất nhiều cửa, nên nhờ các cháu, tài sản được trả hay không thì chưa biết, nhưng làm hư các cháu thì mẹ cháu sẽ hiện về tát vào mặt cô, nghe chửa? Tôi nói: Nếu vậy thì cô đang làm hư cậu Lợi? - Cô nghĩ thế lực cậu Lợi chẳng phải đút lót ai, nên mới nhờ…

Sau này, trong nước có nhiều chính sách về bất động sản cởi mở, máu làm giàu nổi lên, cô giấu các con, gửi chúng tôi một số tiền và nói sẽ còn gửi về tiếp để đủ mua một căn hộ cao cấp trong khu quy hoạch mới ở trung tâm. Tôi hỏi: Để làm gì? Cô nói: Trước mắt là vì lợi nhuận, sau nữa sẽ tính tiếp…Từ đó, không thấy cô nói thêm sẽ tính tiếp thế nào.

Năm 2010, vợ chồng tôi sang Mỹ thăm cô, đã trả lại cô số tiền này vì năm đó, cô đã ngoài 80, sức khoẻ không được tốt, khi ở nhà Tú, Quyến, khi ở với Thiện, Yên, giấc mơ căn hộ Sài Gòn chắc chắn không thể thành hiện thực. Cô gạt đi và nói: Các con cất ngay đi và đừng cho em nào bên này biết. Nhất định cô vẫn sẽ tiếp tục gửi về. Nhớ đừng cho đứa nào biết, nghe chửa? Chúng nó không muốn cô về, nhưng cứ khoẻ là nhất định cô sẽ về.

Không rõ nói thế là cô muốn về ở hẳn hay chỉ về chơi? Tuổi tác và bệnh tật khiến người dì suốt đời sống quyết liệt của tôi trở nên chừng mực, nhưng tôi biết chắc khao khát sống vì sự bền vững của gia đình và dòng tộc Mai Lĩnh nơi dì không vơi đi chút nào.


NMT.

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

David , con trai Đỗ Phú Thọ về thăm quê



Ngày 8/01/2018, xuống sân bay lúc 3 giờ sáng thì 9 giờ , David và bạn gái là Shi (tên tiếng Hoa đầy đủ là 石胜岚 Shi Shenglan , Thạch Thắng Lam) cùng cháu Hoàng và tôi đã lên Xá Lợi Phật Đài để viếng các ông bà nhà Mai Lĩnh. Qua câu chuyện được biết , Shi người Hồ Nam TQ, theo gia đình sang Canada lúc 5 tuổi .Hoàng nhận xét , Shi nói tiếng Anh không bị lỗi về accent, tức là nói như người bản địa . Còn Shi nói tiếng phổ thông cũng khá tốt , chứng tỏ sự dạy dỗ của người Hoa trong gia đình sống tại hải ngoại. Cháu trai tôi David quá đẹp , trong khi ...!


Thọ góp 100 CAD, chuyển đổi và gửi vào quỹ

Đỗ Minh Trang lập gia đình

Cháu Đỗ Minh Trang con gái chị Lê Thị Mỹ Diệp sẽ lên xe hoa vào ngày 18/01/2018 sắp tới tại Gem Center 18 Nguyễn Bỉnh Khiêm. 

Ông Ngô Văn Trừ vừa mất !

Vào giờ này, ngày 12/01/2018, ông Ngô Văn Trừ , thường gọi là Tự đang được làm thủ tục hỏa táng tại Bình Hưng Hòa. Sau khi hoàn tất , di cốt sẽ được đặt tại Xá Lợi Phật Đài Thủ Đức cùng với các ông Mai Lĩnh. Ông Trừ là con nuôi của cụ Ba Mai Lĩnh Đỗ Văn Kỳ . Theo Đỗ Văn Căn , Trừ theo cụ Ba từ lúc 5, 6 tuổi . Khi cụ mất (1947) ngoài Bắc thì ông Trừ lúc đó 21 tuổi ở tại Sài Gòn . Ông Trừ có 3 người con : Ngô Thái Tu, Ngô thị Bạch Ngọc và Ngô Thái Nhị. Tu làm các việc lao công, Ngọc làm lao động may vá còn Nhị làm nha công . Tu có hai con gái. Ngọc có một gái một trai và Nhị có một con gái . Khi đất nước bị chia cắt, sống tại miền Bắc, mình cũng không biết gì về anh Tự. Nhớ tới anh Tự thường tới thăm má Nội rất tình cảm trong những năm qua, chi thứ 7 có Nguyệt Bình, Giang (thay mặt cả Sơn Hiển) đã đến phúng viếng.
Tang lễ tại chùa Ấn Quang


Tu và Ngọc đang làm lễ

Ngô Thái Nhị