Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2018

Hồi tưởng thời gian khổ !

Cuộc thảo luận nổ ra trên FB Hồng Hà vào ngày 6/07/2018 sau khi Hà nhắc lại bài Besame Mucho  
Hai Duong : Cô Dohongha Ha, Bài hát này làm anh nhớ đến anh Hòe, em chị Nhung bạn chị Ninh. Ngày đó sáng sáng hai anh em (H lớn hơn anh một tuổi) đi xe đạp lên cảng Vật Cách học nghề. Người thày đầu tiên là anh Thuan Le Canh bạn anh Nguyen Thai Do. Khi đó anh T ở cảng Vật Cách tìm cách để hai đứa lọt vào cảng mà không ai kêu ca. Ngày đó có một chiếc cần cẩu của Liên Xô rất phức tạp. Nhìn vào sơ đồ điện anh hoa mắt. Giờ nghỉ, Hòe thường ngồi tâm sự với anh về tương lai (ngày đó anh mới hết trung học và chưa đủ 18 tuổi rất non nớt...) và hát nhiều bài hát cho anh nghe trong đó có bài Besame Mutso này. Anh Hòe cũng đam mê điện tử và chơi violin. Sau anh ấy tìm được việc ở phòng thí nghiệm ĐHBK Hà Nội. Sau này, khi anh đã trưởng thành, chính anh Hòe đã lấy hàng "lái tia" do anh chế tạo mang lên Hà Nội và lúc anh đang học ĐHBK Hà Nội, hai anh em hay cùng nhau đi sửa TV ở trên đó. Âu cũng là một kỷ niệm!

Hong HaAnh Hoè giờ nhà ở phố Huế gần chợ Giời phải không anh. Sao cái thời xưa rất khổ mà anh em mình vẫn đam mê âm nhạc, đặc biệt là nhạc cổ điển.

NguyenLàm anh nhớ lại chiếc xe cần cẩu 16 tấn K160 của Nga ...có một mảng chỉnh lưu Selen(thay vì dùng điện trở) rất lớn dùng để thay đổi tốc độ của động cơ 3 pha rotor quấn dây .Bây giờ nhìn lại những ngày đó mới thấy nó thâ sơ đơn giản biết chừng nào

Nguyen : Ngày xưa rất khổ ,nhưng cả làng cả nước đểu như nhau nên mình không thấy khổ ..Vả lại những năm sau này khi các em đã lớn , nhà mình so với những nhà xung quanh thì cũng hơn một tí ..Trong khi cả khu phố không có điện thì nhà mình có điện 6 giờ do mấy tiểu yêu thợ điện nhà mình câu điên vào hệ thống điện chiếu sáng đèn đường của thành phố ...bật điện lúc 6 giờ tối .Anh Lạng Sơn vẫn hay nói đùa : thợ may ăn rẻ , thợ vẽ ăn hồ ...còn mình là thợ điện thì ăn điện

Anh Sơn thì cho tiền Hienluong Do học đàn, còn anh thì cho em tiền. Hai chị em học violin ông Lễ là em ông Hiệu đàn Sơn Ca ở Cầu Đất. Trong khi anh Nguyen Thai Do thì bốc vác ở Cảng, còn anh Sơn thì làm nhà máy Nhựa Tiền Phong. Nhiều lúc bây giờ em cứ nghĩ: Sao hồi ý khổ thế mà vẫn nghe Chopin, Bethoven, vẫn học đàn được nhỉ. Em thấy
cảm ơn được ba má dạy làm người, còn các anh giúp chúng em có tri thức.

Hai Duong : Ha ha bác Nguyen Thai Do! Chúng em thế hệ sau đã sớm sống khôn ngoan nhờ các bác đi trước. Nhà ta toàn các tiểu yêu thợ điện. Tính ra nè: Nguyên, Sơn, Quang, Dương, Thọ đều là thợ điện. Em xin kể một chuyện. Không biết có ai còn nhớ không? Anh Sơn "thoát" nhà máy 23/9 với một "pha" rất đặc biệt! Hôm đó anh S chuẩn bị sẵn dây da an toàn đeo chắc chắn. Bác trèo lên cột điện nhà máy. Buộc chặt dây da rồi thả mình treo lơ lửng và hét lên như đang tai nạn điện giật. Hôm sau bác xin "quít" và nhảy luôn sang nhà máy nhựa TNTP!

Hai Duong : Cô Dohongha Ha, người đầu tiên ở nhà ta anh Sơn cho tiền đi học violin chính là anh. Hienluong Do là sau này. Ngày đó anh Sơn làm được đồng lương đầu tiên ở nhà máy Chai Hải Phòng. Anh Sơn đã mua một chiếc violin cỡ 3/4 rồi đưa anh đến học thầy Lễ em ông Sơn Ca. Anh học được ít lâu thì chiến tranh xảy ra. Đi sơ tán và tất cả việc học chấm dứt. Ngày đó anh rất sợ thầy Lễ và luôn tủi thân vì không bao giờ được thày khen. Thày bẻ tay anh rất đau vì anh không ấn dây đàn thật tự tin còn tay phải cầm "ác xê" cũng bị thày sửa rất nhiều lần....😊Bài tủ của thày là "Biết ơn chị Võ thị Sáu"! Giờ nghĩ lại, anh thấy rất quí thày với tác phong uốn nắn học trò từng li từng tí như vậy.

Nguyen : Bây giờ bao nhiêu năm mới kể .Cuộc đời làm thợ điện của ông Sơn nhà mình là may mắn nhất.Khi đi xin việc ở 23/9 .,liếc vào nhà máy thấy dùng máy phát dã chiến 30 Kw của Đức thế là Sơn ra Cảng HP thực tập cách đề máy ,đóng cầu dao điên ...Thế là ngày hôm sau quay lại 23/9 xưng là thợ điện ở Cảng HP ,chuyên môn về máy phát điệnDK30 Sau khi sát hạch trên may phát điên ,23/9 nhận với lương bậc 2

Nhiều chuyện bây giờ em mới biết dâyd. Hôm nào đi học đàn là vừa đi đường vừa nhẩm bài. Ô Lễ khắt khe, cũng bẻ tay cầm ac xê như anh Dương, lúc nào em cũng tự ti sao mình dốt thế.

Hai Dương viết : Anh Nguyen Thai Do, em cũng có chút may mắn là nhờ các bác. Anh Hồng thợ điện Đồng Tâm Quốc Tế mách anh Sơn nhà máy xay HP đang cần thợ điện. Anh S giục em đi thử nghề. Anh S xui em phải mặc một bộ bảo hộ lao động nhem nhuốc bẩn thỉu. Túi thòi ra cái cán kìm điện Diamond của Trung Quốc và phải tỏ ra thật thực tế già dặn. Ngày đó em mới có 19 tuổi nhưng khai là 23 để phù hợp với 3 năm học nghề sau 18 tuổi và kinh nghiệm thực tế một năm. Người phỏng vấn em là anh N, tổ trưởng tổ điện. Một điều rất may mắn là anh N có cảm tình với em. Sau này có mấy người ghen tuông với em trong đó có một anh lúc đầu rất ghen ghét nhưng sau chính anh ta lại thích em vì biết em lắp radio và rồi anh ta thuê em lắp một chiếc cho anh ấy. Một hôm buổi tối đi họp chi Đoàn nhà máy, thấy một người khoác chiếc áo choàng to và tiếng "Đài Tiếng Nói Việt Nam" oang oang vang lên bên hông trong khi kéo theo là một đoàn các cô gái khúc khích cười nói. Trong đêm tối, em nhận ra chính là anh thợ điện đó và chiếc radio anh đeo bên hông là do em lắp!😂. Anh cũng là trùm tán gái mà nhà máy đồn đại ngày đó 😂 Sau này anh em lại thân nhau và có lần anh ta đã đến nhà ta chơi!

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2018

Những gia đình cùng vụ án năm 1913 với Đỗ Văn Phong


Vụ trọng án được tuyên  ngày 05/09/1913 tại Tòa Đề hình Hà Nội, xét xử 97 người, với 7 án tử hình thi hành chém đầu ngày 24/09/1913 và 8 án lưu đày cùng nhiều án tù giam . Đỗ Văn Phong là một trong số 8 án lưu đày còn trong số 7 án chém đầu có Phạm Văn Tráng người làng Bát Tràng, và hai ông đồ họ Phạm khác mà chúng tôi đã tới thăm nhà tưởng niệm và hôm nay xin kể lại tại đây .
Đó là vụ Việt Nam quang phục Hội (VNQPH), do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo năm 1912 đã tập hợp một số chí sĩ cách mạng trong phong trào Đông Du, nhằm chuẩn bị lực lượng đánh đổ thực dân Pháp. Muốn khích lệ tinh thần dân tộc, hội chủ trương trước mắt cần gây những “tiếng vang kinh thiên động địa” để “gọi tỉnh hồn nước”. Cuối năm 1912, hội đã phái ba nhóm chiến sĩ đem vũ khí từ Trung Quốc về nước và tản ra khắp ba kỳ, mục đích tìm và tiêu diệt những tên Việt gian đầu sỏ. Trong ba nhóm, chỉ có nhóm về Bắc Kỳ là thực hiện thành công việc giết tuần phủ Thái Bình và hai sĩ quan Pháp ở nội thành Hà Nội.

Hai vụ gây chấn động dư luận đương thời đều do hai chiến sĩ người Hà Nội thực hiện là Phạm Văn Tráng quê ở Bát Tràng, Nguyễn Khắc Cần quê ở Yên Viên (Gia Lâm). Ngoài ra, còn có hai anh em ruột là Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân (quê thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà, huyện Đông Anh). Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân sinh ra trong một gia đình có 4 anh em trai. Anh cả Phạm Hoàng Trù, đậu cử nhân ra làm huấn đạo, ba em đều học giỏi trong đó có Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân vì chưa đỗ nên vẫn đi dạy học, dân trong vùng thường gọi là ông Đồ Ba, ông Đồ Tư. Thời kỳ đó phong trào Đông Du và VNQPH đang lên mạnh, lôi cuốn nhiều nhà Nho tham gia và ra nước ngoài hoạt động, trong đó có Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân. Phạm Hoàng Luân, vốn tính cương nghị và có tài tổ chức nên được giao nhiệm vụ phụ trách khu vực hai huyện Đông Anh và Tiên Du (bấy giờ đều thuộc tỉnh Bắc Ninh). Sau vụ ném tạc đạn ở Thái Bình giết tuần phủ Nguyễn Duy Hàn (12/04/1913) và giết hai trung tá Pháp (26-4-1913), thực dân Pháp vô cùng hoảng hốt, tiến hành một cuộc khủng bố trắng, bắt bớ hàng nghìn người. Do sự phản bội của Đặng Kinh Luân và Đặng Vũ Hoàn, cùng tham gia tổ chức, thực dân Pháp đã nắm được danh sách chủ chốt của VNQPH. Ngày 07/05/1913 Phạm Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần bị bắt tại Lạng Sơn, khi sắp sửa vượt qua biên giới. Phạm Hoàng Luân biết tin về hành động của hai tên phản bội bèn tính gấp việc trừng trị hai tên này. Đặng Kinh Luân và Đặng Vũ Hoàn được triệu tới nhà ông Cả Châu ở thôn Phù Khê, cách Lỗ Khê khoảng 3 km, thường được dùng làm địa điểm hội họp bí mật. Ngày 24/05/1913, Đặng Kinh Luân đến trước, bị dụ ra cánh đồng gần làng và bị xử bằng dao. Ba ngày sau, đến lượt Đặng Vũ Hoàn tới chỗ hội họp và cũng phải đền tội. Sau vụ này, hai ông bị chúng bắt đưa về giam ở Bắc Ninh. Chúng đã dùng những cực hình tra tấn như lấy kim đóng vào đầu ngón tay ngón chân, lấy mâm đồng nung đỏ bắt ngồi lên trên. Nhưng hai ông nhất định không khai nửa lời về việc giết hai tên này. Bọn chúng tàn nhẫn bắt cả cụ bà thân sinh hai ông và người anh cả là ông Huấn Trù, hy vọng dùng tình cảm gia đình lung lạc chí khí cách mạng của hai ông.

Ngày 29/08/1913, hai ông Triết, ông Luân ra xử trước hội đồng đề hình trong một danh sách bị cáo gồm 97 người và bị tuyên tử hình . Ngày 24/09/1913 (tức ngày 24 tháng 8 năm Quý Sửu) bản án được thi hành. Chúng cho dựng máy chém ở cửa nhà tù Hỏa Lò để hành quyết 7 yếu nhân của VNQPH. Báo Tương lai xứ Bắc Kỳ miêu tả: “Các chiến sĩ rất bình thản và vui vẻ đón nhận cái chết” và “chỉ trong 4 phút rưỡi, 7 tử tù đã bị hành quyết trong sự im lặng của đám đông chứng kiến. Rất nhanh chóng, người ta chuyển xác của các tử tù lên hai chiếc xe đưa về bệnh viện Bạch Mai. Đến 6 giờ 30 phút, các quan tài được đưa đi chôn và mọi việc kết thúc”.

Phạm Hoàng Triết hy sinh năm 36 tuổi và Phạm Hoàng Luân hy sinh năm 34 tuổi. Nhân dân Lỗ Khê vô cùng thương tiếc và cảm phục sự hy sinh vì nghĩa lớn của hai nhà chí sĩ. Để tránh sự theo dõi và trả thù của chính quyền thực dân, nhiều câu đối viếng không được viết ra nhưng được dân truyền từ người này qua người khác:

Anh em ruột thịt một hùng tâm, con Lạc cháu Hồng nêu nghĩa cả, khí tiết sáng ngời hai chí sĩ, non Thường dòng Lỗ ngát hồng thơm.

(Non Thường tức núi Nguyệt Thường, ở huyện Tiên Du, thường để chỉ vùng Bắc Ninh; dòng Lỗ chỉ đất Hà Lỗ nói chung và Lỗ Khê nói riêng).

Chú ý : Bia phía phải, trên cùng là biểu tượng búa liềm !!!!




Chí sĩ Từ đường
Ông Phạm Hoàng Lựu giới thiệu nhà Từ đường 

Tháng 9-1945, khi nước ta vừa giành được độc lập, nhân ngày giỗ của hai vị, Lỗ Khê đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân. Cũng từ đó, dòng họ Phạm Hoàng có ước nguyện tìm hiểu sâu sắc hơn về cái chết của hai người. Nhưng rồi hơn 30 năm chiến tranh, ước nguyện chính đáng đó chưa có cơ thực hiện. Mãi đến năm 1982, ông Phạm Hoàng Lựu, cán bộ về hưu đã dành thời gian tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của hai ông chú của mình. Ông tìm đọc “Việt Nam những sự kiện lịch sử”, tìm đọc các sách báo cũ. Ông đến Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Viện Lưu trữ Quốc gia I… Đến Thư viện Quốc gia, ông tìm các số báo năm 1913, mặc dù không biết tiếng Pháp nhưng vẫn kiên trì lật từng trang báo cũ. Đến một trang ông thấy in 7 bức ảnh, trong đó có hai tấm ảnh đề tên Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân. Vô cùng phấn khởi ông phôtô mấy bản mang về nhờ anh Phạm Quân, một người biết tiếng Pháp dịch. Nhưng đó chỉ là những tấm ảnh có ghi tên mỗi người. Ông Lựu nhờ anh Quân trở lại Thư viện Quốc gia và tìm được bài “Tử hình những kẻ vô chính phủ chống đối lại người Pháp” của H. De Massiac in trên tờ ‘Tương lai Xứ Bắc Kỳ” số ra cuối tháng 9-1913. Từ bài báo đó, ông Lựu còn tìm được nhiều bài khác nói khá đầy đủ về thân thế, sự nghiệp của hai nhà chí sĩ yêu nước. Các tài liệu được ông tập hợp thành tập 90 trang khổ A4. Ông đã báo cáo sự việc với bà con dòng họ và chính quyền xã Liên Hà. Ngày 30-8-2005, tại Nhà văn hóa Lỗ Khê, UBND huyện Đông Anh đã tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp Phạm Hoàng Triết và Phạm Hoàng Luân. Ngày 28-12-2006, UBND huyện Đông Anh đề xuất một chương trình hành động nhằm tôn vinh công trạng của hai ông như đặt tên đường phố, trường học mang tên hai vị, xây nhà thờ và bia tưởng niệm. Cả dòng họ Phạm Hoàng đã đồng tình, góp tiền xây dựng; ông Phạm Hoàng Lựu hiến 100m2 đất để dựng nhà thờ. Công trình khởi công ngày 12-6-2007, khánh thành ngày 24-8-2007. Nhà thờ 3 gian khung gỗ, cửa bức bàn làm theo kiểu cổ, mái lợp ngói ta. Trên đỉnh nóc có đắp nổi 4 chữ “Chí sĩ từ đường”. Tôn thêm vẻ đẹp cho công trình là các câu đối, khám thờ, ngai thờ sơn son thếp vàng đều do con cháu dòng họ góp tiền mua. Tại gian chính giữa có treo bức hoành khắc 4 chữ lớn “Trung liệt phương danh”. Ngày 15-12-2007, UBND thành phố ra quyết định gắn biển “Di tích cách mạng kháng chiến” tại Nhà lưu niệm hai nhà chí sĩ. Nhà bia dựng phía bên phải nhà thờ, nổi bật trên nền đá hoa cương là dòng chữ: “Nhân dân Lỗ Khê tự hào là quê hương của hai anh em chí sĩ cách mạng Phạm Hoàng Triết (1875-1913) và Phạm Hoàng Luân (1877-1913) - Những yếu nhân của tổ chức Việt Nam quang phục Hội. Hai ông sớm tham gia tích cực phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, đã bị thực dân Pháp bắt giam và tử hình ngày 24-9-1913”. (Điều trớ trêu là hai ông đồ lại được vinh danh dưới nhãn búa liềm )